Thiên Lương sao trong hệ Nam đẩu, chủ về thọ lộc, hóa khí là Ấm, thuộc dương thổ (xin nhắc sao Tham Lang trong hệ Bắc đẩu chủ về tai ách tử vong). Cát chủ về tinh tế, sáng suôt. Hung chủ về chuyên chế. Cho nên Thiên Lương tuy gọi ấm tinh, nhưng bản chất lại có tính cô kỵ.
Thiên Lương được ví như giám sát ngự sử, can gián hoàng đế, đàn hạch đại thần, tuy không chủ quản hình pháp, nhưng trong thực tế có ý vị của hình pháp, kỉ luật, nguyên tắc. Thiên Lương nên hội chiếu hơn là thủ mệnh hay là xung chiếu vì lúc đó sẽ đỡ tính hình khắc cho thân mệnh. Thủ cung Mệnh đều không tốt bằng Phúc nó mang lại.
Thích hành động một mình, mạnh mẽ, nguyên tắc, đây là tính cách thuộc phương diện cô kỵ. Phương diện khác thì thích căn cứ vào nguyên tắc của mình để giải quyết bất hoà, tranh chấp, phân xử thị phi, do đó thường bị cuốn vào vòng khó khăn, không được an toàn. Phàm là người Thiên Lương thì nên theo ngành y dược, bảo hiểm, công tác xã hội, những nghề nghiệp liên quan tới can gián, che chở.
Thiên Lương không ưa Hoá Lộc hoặc có Lộc Tồn đồng độ, dễ chủ về vì tiền bạc mà bị đố kỵ, thi phi. Cho nên phù hợp với những việc giải tan, tan biến phiền nàn của người khác. Cùng là Lương Lộc, với bác sĩ thầy thuốc là sao cát, với thương nhân là xấu, phải trải qua khó khăn mới có được tiền.
Bất kể thế nào Thiên Lương gặp Lộc sẽ khơi động tính cách mạnh mẽ của nó. Vì vậy Đồng Lương chủ mệnh tạo có phong cách đặc biệt, gặp Lộc lại thành xuôi theo dòng nước.
Lúc luận đoán Thiên Lương, cần quan sat hai phương diện
- Các sao hội hợp ảnh hưởng thế nào với tính cách “cô kỵ” của nó, làm mạnh thêm hay yếu đi.
- Thiên Lương vì vậy mà thay đổi thành như nào.
Dương Lương Xương Lộc là cách cục tính nguyên tắc của Thiên Lương lại thành nguyên tắc trong học tập, vi vây có lợi cho nghiên cứu. Nguyên cứu bản thân cần chú trọng việc tự học, bản thân không ngừng phủ định mình, thì học thuật mới tiến bộ, cho nên không sợ các sao sát hình đồng độ. Nhưng trong lúc tranh chấp mà có sát tinh thì bất lợi.
Mệnh cung hay tật ách cung mà thấy sao Thiên Lương thì gặp hung chuyển ra cát tiểu tai giải ách. Nếu cung Phúc có Thiên Lương, mà cung Mệnh không có cát tinh hay sao hoá giải, tới vận hạn nặng chỉ có thể là chết. Chết là cách tiêu tai giải ách mạnh nhất, đó cũng là ý nghĩa của Thiên Lương.
Thiên Lương ở hãm địa Hợi Tỵ thì cuộc đời phiêu bồng không lý tưởng cũng không có mục đích để theo đuổi.
- Thiên Lương đứng một mình ở các cung Tí Ngọ Tỵ Hợi và Sửu Mùi.
- Thiên Lương đứng cùng Thiên Đồng ở Dần Thân,
- Thiên Lương đứng cùng Thiên Cơ ở Thìn Tuất,
- Thiên Lương đứng cùng Thái Dương ở Mão Dậu.
Thiên Lương Tỵ Hợi thủ Mệnh không cần gặp Hình Kị Sát tinh cũng vẫn là một cuộc đời lắm tai lắm nạn, đến mức độ chín chết một sống, cuối cùng ra thoát như tên tử tội sắp tới ngày ra pháp trường mà được ân xá.
Thiên Lương Tỵ Hợi lắm gian truân mà không thành tựu. Nghèo thì thọ, hễ gặp cơ may mà giàu sang khó tránh khỏi yểu mệnh. Như cổ nhân bảo:”Phi bần tất yểu”. Vận hạn đến Tỵ Hợi Thiên Lương bảy nổi ba chìm.
Thiên Lương ở Mùi Sửu nếu gặp cát tinh thì bình ổn, có chức nghiệp vững vàng và phục vụ đắc lực hợp với tuổi Ất Nhâm, thêm Văn Xương càng hay.
Khoa Tử Vi Việt không thấy nói tới sao Âm Sát nhưng ở Đại Hàn Nhật Bản và Trung quốc thì có cách Thiên Lương Âm Sát. Thủ Mệnh mà Thiên Lương gặp Âm Sát biến ra con người có âm nhãn dễ nhìn thấy ma quỉ hoặc có muội lực kỳ bí, tuy nhiên cũng vì vậy mà thần kinh dần dần suy nhược.
Âm Sát là sao tính theo tháng cách an như sau: Tháng giêng tại Dần, tháng hai ở Tí, tháng ba ở Tuất, tháng tư ở Thân, tháng năm ở Ngọ, tháng sáu ở Thìn, tháng bảy ở Dần, tháng tám ở Tí, tháng chín ở Tuất, tháng mười ở Thân, tháng mười một ở Ngọ, tháng mười hai ở Thìn. Tháng đây là tháng sinh của người mang số.
Muội lực kì bí càng mạnh nếu có cả Linh Tinh đi kèm. Nhưng nếu lại đi cùng hao tinh, không tinh thì ngả sang thần bí tôn giáo. Những nhà sư thuộc mật tông phái giỏi về khoa huyền bí phần lớn có Âm Sát đi với Thiên Lương hay Thiên Cơ
Thiên Lương đơn thủ Tí Ngọ thì ở Tí tốt hơn Ngọ. Bởi lẽ Thiên Lương Tí sao Thái Dương đắc địa tại Ngọ gây ảnh hưởng tốt thêm cho Thiên Lương, còn Thiên Lương Ngọ Thái Dương Tí không đắc địa.
Thiên Lương luôn luôn bị một điểm phiền là Cự Môn đóng vào cung Phu Thê, tại Ngọ Cự Môn Thìn, tại Tí Cự Môn Tuất, tại Mão Dậu Cự Đồng Sửu Mùi khiến cuộc sống lứa đôi khó thoải mái, không đồng sàng dị mộng thì cũng chia tay thì cũng hai vợ, hai chồng. Nam hay nữ đều như vậy, nhưng số nữ Cự Đồng vào Phu nặng hơn.
Cự Đồng cùng đóng Phu cung.
Một sầu góa bụa hai sầu lỡ duyên
Thiên Lương là thọ tinh, đóng Mệnh cung được tuổi thọ, trừ trường hợp Thiên Lương Tỵ Hợi mà giàu sang, nhưng thọ không phải là sức vóc khỏe mạnh.
Thiên Lương thủ Mệnh gặp nhiều Sát Kị tinh thì sức khỏe suy yếu, nhờ thuốc thang kéo dài sự sống. Tỉ dụ bị bệnh thổ huyết mà hút thuốc phiện, bị mất ngủ kinh niên mà dùng thuốc ngủ, thuốc an thần.
Thiên Lương qua nhận xét của các nhà số học Trung Quốc mang phong độ danh sĩ khi nó gặp những sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Khúc, Văn Xương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Họ căn cứ vào những câu phú ghi trong Đẩu Số Toàn Thư:
– Lương Đồng đối cư Tỵ Hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm
– Lương Dậu Nguyệt Tỵ, khước tác phiêu bồng chi khách
– Thiên Lương Thiên Mã hãm, vi nhân phiêu đãng phong lưu
“Cơ Nguyệt Đồng Lương” là một cách nổi tiếng. Cổ nhân nói “Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ về làm lại người” (Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân). Người nắm quyền thấp hơn lãnh đạo mà thao túng lớn
Lộc đứng kèm bên Thiên Lương sẽ đưa đến tình cảnh vì tiền mà mang tai mang họa. Thiên Lương qua chức vị nghề nghiệp mà hưởng phú quí, nói khác đi là người khác ban thưởng bổng lộc cho hơn là tự phấn đấu để giành giật lấy.
Người Thiên Lương hoàn toàn không đủ thủ đoạn mưu chước đương đầu sự chống phá chung quanh.