Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa lý chí.
(mệnh đóng cường cung, xét kỹ là chế hóa)
Câu phú này thừa tiếp câu trên. Câu trên nói rằng dùng Đẩu Số suy đoán Lộc Mệnh ắt phải nắm rõ lẽ sinh khắc chế hóa giữa các chòm sao, tức là tác dụng tăng cường hoặc giảm bớt sức mạnh, hoặc chuyển hóa đối với các nhóm sao cơ bản (gồm 60 tinh hệ). Ý nghĩa của câu phú này cũng tương tự như vậy, nhưng có một chút khác nhau.
“Mệnh tọa cường cung” ở đây nghĩa là nhóm sao đóng ở cung mệnh là sao tốt, thậm chí còn vào miếu địa, vương địa. Trong tình thế như thế, tại sao vẫn phải “xét kỹ lễ chế hóa”?
Theo giải thích của phái Trung Châu thì câu này đề cập bao gồm sự chế hóa trong cả 12 cung, nhưng chỉ xin đưa ra cung mệnh là để làm ví dụ mà thôi.
Cung mệnh có hai cung. Một là cung mệnh trong nguyên cục, còn một là cung mệnh lưu động, cung mệnh này bao gồm cả cung mệnh trong đại hạn và cung mệnh lưu niên. “Sinh khắc chế hóa” tức là cung mệnh lưu niên tác động, gây ảnh hưởng đối với cung mệnh nguyên cục.
Chẳng hạn như cung mệnh nguyên cục là Thái Dương tọa ở cung Tỵ, thuận hành đại hạn theo thứ tự sẽ là Phá Quân, Thiên Cơ, Tử Phu…, mỗi lần qua một đại hạn đều phải xem nhóm sao của đại hạn ấy ảnh hưởng thế nào đối với nhóm sao nguyên cục.
Đại hạn là như thế, lưu niên cũng như thế. Cung mệnh là như thế, các cung khác cũng như thế.
Tính chất biến hóa của các nhóm sao trong lúc trải qua vận hạn lưu niên, và các loại phản ứng đặc hữu của chúng là nội dung của “Tử Vi tinh quyết lục bách vận” (600 vần của bài quyết về sao trong Tử Vi).
Phải biết được biến hóa và phản ứng, sau đó mới có thể suy đoán được.
Hình 22: Mỗi đại hạn đều phải xem nhóm sao trong cung mệnh nguyên cục chịu ảnh hưởng của nhóm sao trong đại hạn ấy thế nào.
Hình 23: Quan hệ giữa nhóm sao trong cung mệnh và các Đại hạn